Nhớ ngày 30/4/75:
VÀI NÉT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA BIỆT
KÍCH DÙ TẠI BẮC VIỆT
Trung Tá Nguyễn Văn Vinh
Lời Ṭa Soạn: VNCH đă
giữ vững được cuộc sống tự do trong suốt 21 năm ngắn ngủi
nhưng đầy gian truân, máu và nước mắt, đầy sự hy sinh của biết
bao nhiêu người.
Trong số những sự hy sinh đó, phải
nói tới sự hy sinh của người lính Biệt Kích Dù hoạt động tại Bắc
Việt. Số phận của họ rất bi thảm khi bị kẹt tại Bắc Việt.
Bảng tổng kết sơ khởi cho biết trong số những Biệt Kích Dù được
thả ra miền Bắc có 7 người đă bị CS tuyên án tử h́nh và đă bị hành
quyết, 9 người tử trận, 21 người chết trong các trại tù khổ sai
miền Bắc, 7 người chết sau khi được thả về, 2 người mất
tích khi thi hành nhiệm vụ, 11 người bị chỉ định phải định
cư tại các nông trường hay hợp tác xă miền Bắc. Đa số những người
c̣n lại đều bị tra tấn dă man và bị bắt lao động khổ sai trong những
trại tù khắc nghiệt nhất. Tại sao hầu hết các biệt kích thả xuống
miền Bắc đă bị CS bắt?
Bài viết sau đây là của Trung tá Nguyễn
Văn Vinh, người trực tiếp phụ trách các toán Biệt Kích Dù được thả
xuống Bắc Việt, sẽ cho chúng ta biết những nét đại cương về
tổ chức các đơn vị Biệt Kích, các hoạt động của họ và cách
thức điều hành của cơ quan t́nh báo Hoa Kỳ.
* * * * *
Vài nét về hoạt động của Biệt
Kích Dù tại Bắc Việt
Ít ai biết đến các tên P45, Sở Bắc
hay Sở Khai Thác, tiền thân của Nha Kỹ Thuật Bộ Tổng Tham Mưụ Đó
là những bí danh của một cơ quan t́nh báo chiến lược, được thành lập
từ cuối năm 1958, đặt trực thuộc Phủ Tổng Thống và nằm trong
mạng lưới chỉ huy của Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng
Đặc Biệt VNCH. Cơ quan này được Hoa Kỳ yễm trợ cả về tài
chánh lẫn các phương tiện cần thiết để thực hiện cuộc chiến
tranh không quy ước chống miền Bắc CS.
Sau Hiệp dịnh đ́nh chiến Geneva,
vĩ tuyến 17 được chọn làm vùng phi quân sự và sông Bến Hải là biên giới
thiên nhiên, ngăn cách 2 miền Nam Tự Do và Bắc CS. Quân đội viễn chinh Pháp, dưới
áp lực của Hoa Kỳ, đă phải kéo cờ tam tài xuống khỏi dinh Norodom, nhường
chỗ cho quốc kỳ VN tung bay tại dinh Độc lập vừa được đổi
tên và đổi chủ. Để đáp lại, quân đội Pháp đă không nương
tay, xóa sạch mạng lưới t́nh báo mà họ đă khổ công gầy dựng trong nhiều
năm tại miền Bắc. Đây là một sự thiệt hại khá lớn cho ngành t́nh
báo non trẻ của miền Nam. Trong khi đó, CS đă để lại tại miền Nam
vô số cơ sở t́nh báo mà họ đă gầy dựng trong suốt thời kỳ chống
Pháp, trong đó phải kể đến các thân nhân của các cán bộ và bộ đội
tập kết. Thêm vào đó, các khuyết điểm to lớn chồng chất của 2 chế
độ lỗi thời Thực dân dân và Phong kiến đă làm mồi nuôi dưỡng các
phong trào chống đối trong nội bộ miền Nam, rất thuận lợi cho các cán
bộ CS nằm vùng khai thác.
Dù vậy, ngành t́nh báo miền Nam, tuy phải
xây dựng trễ và phải đặt nền móng từ đầu, nhưng lại được
hưởng ứng nồng nhiệt v́ đa số người Việt thời ấy, nhất
là đồng bào di cư, các bộ lạc dân tộc thiểu số, các đảng phái chính
trị và tín đồ các tôn giáo, đă thấy rơ bộ mặt gian dối của CS. Có người
đă chứng kiến những vụ tàn sát hay đấu tô dă man các thành phần quốc gia
yêu nước nhưng bất đồng chính kiến với CS và có khi họ chính là thân nhân
của các nạn nhân đó. Ngoài ra, những tài liệu sống động như cuốn
phim Chúng Tôi Muốn Sống đă gây được một ấn tượng ghê tởm CS
trong mọi tầng lớp nhân dân miền Nam.
Nắm được các yếu tố thuận
lợi trên đây, Sở Bắc đă gấp rút gửi nhân viên đến các trại định
cư, liên lạc với các vị lănh dạo tinh thần cũng như các bộ lạc dân
tộc thiểu số, chiêu mộ các thanh niên nhiệt t́nh yêu nước c̣n thân nhân ở tại
miền Bắc, để cấp tốc đưa về huấn luyện và tạo vỏ
bọc thuận lợi, đưa họ về quê quán hoạt động.
Từ những năm đầu tiên đến
năm 1966, các toán xâm nhập miền Bắc thường xử dụng một trong những
phương cách sau đây:
- Nhảy dù đêm vào vùng mục tiêu. -
Xâm nhập đường biển bằng thuyền mẹ, và từ đó xử dụng
thuyền con bơi vào vùng công tác. - Xâm nhập vào vùng phi quân sự, vượt sông Bến
Hải và lén lút đi bộ vào điểm công tác, móc nối với thân nhân đă nằm vùng,
hoặc giới chức được tín nhiệm tại địa phương. Trường
hợp sau này thường phải xử dụng “bona fides” để nhận nhau.
- Cử chuyên viên phục vụ tại Ṭa Đại sứ của một vài nước
thứ 3 như Lào, Cam-bốt, Pháp, Thái Lan hay Hong Kong...rồi từ đó tuyển mộ và
huấn luyện các công tác viên có khả năng, và tạo cho họ cái vỏ bọc thích hợp
cũng như giấy tờ hợp lệ để họ dễ dàng xâm nhập vào miền
Bắc hoạt động. Phương pháp này đă được điều nghiên tỉ
mỉ, nhưng v́ quá tốn kém nên chỉ được thực hiện từng giai đoạn.
Tuy có nhiều h́nh thức xâm nhập khác
nhau như vừa tŕnh bày trên, nhưng trong bài này, tôi (Trung tá Nguyễn Văn Vinh) chỉ xin
đề cập đến những toán Biệt Kích xâm nhập miền Bắc bằng đường
hàng không mà thôi, v́ đây la phần việc mà chính tôi đă đảm nhận trong nhiều
năm tại cơ quan t́nh báo chiến lược này.
Những chuyến bay đêm
Các toán Biệt Kích Dù thường được
thả xuống miền Bắc vào những đêm trăng. Mùa trăng thuận lợi cho công
tác này bắt đầu từ ngày mồng 10 - 20 âm lịch hằng tháng. Giờ giấc được
chọn tùy thuộc vào điều kiện an ninh và thời tiết tại vùng công tác. Để
có đủ phương tiện đối phó với các bất trắc có thể xảy
ra khi toán chạm đất, các nhân viên Biệt Kích Dù phải mang theo các trang bị cá nhân khá
nặng nề. Ngoài súng tiểu liên Swedish K. của Thụy Điển hoặc Sten của
Anh hay Uzi của Do Thái có trang bị ống giảm thanh và 3 đơn vị hỏa lực,
họ c̣n phải đèo thêm các dụng cụ khác trên 20 món, nào bidon nước, bản đồ
vùng mục tiêu, địa bàn, lựu đạn, 3 ngày lương khô, đèn bấm, pamean,
dao găm, túi cứu thương cá nhân, cà mèn, pháo hiệu (pen flare), đồng hồ đeo
tay, radio, v.v...
Các dụng cụ này thường được
mua ở các nước thứ 3 và không một trang cụ nào được mang nhăn hiệu
Hoa Kỳ hay miền Nam VN. Các đồ trang bị tập thể nhưng dụng cụ phá
hoại, đồ cứu thương, lương thực dự trữ dùng cho 3 tháng, v.v...đều
được đóng thành kiện. Máy truyền tin dự trữ và máy beacon là máy phát tín hiệu
có tầng số nhất định, được đặt tại kiện hàng só 1. Các
toán viên khi nhảy dù xâm nhập vào đêm, chiếc dù có thể bị ảnh hưởng của
gió, bạt ra xa cách băi thả 1-2 km. Nhưng nhờ các radio cá nhân, họ có thể dễ dàng
bắt tín hiệu từ máy beacon phát ra, để đi về hướng tập trung.
Thông thường, các nhân viên quê quán vùng vào
được thả về mục tiêu vùng đó. Để đảm bảo an ninh cho công
tác, mục tiêu và nhiệm vụ của toán chỉ được thuyết tŕnh vào giờ
chót, trước khi lên máy baỵ Các chuyến xuất phát trong những năm đầu đến
năm 1964, chính cơ quan Trung Ương T́nh Báo Hoa Kỳ đă yểm trợ cho các chuyến
bay bí mật này và lộ tŕnh duy nhất được xử dụng là Tân Sơn Nhất
- Đà Nẵng - Vùng mục tiêu.
Tại Đà Nẵng, đợi lúc trời
tối, phi cơ cỡi bỏ hết mọi huy hiệu trước khi khởi hành xâm nhập
vào vùng hành quân. Phi cơ được xử dụng là loại DC7 hoặc DC6. Phi hành đoàn
thường là người Trung Hoạ Tuy nhiên, cũng có lúc phi hành đoàn là người VN,
được tuyển chọn trong số sĩ quan có khả năng và được tín
nhiệm nhất của Không Quân Việt Nam. Phó TT Nguyễn Cao Kỳ hồi c̣n mang lon Đại
úy, đă nhiều lần làm phi công chính thức cho các phi vụ đặc biệt này. Đến
cuối năm 1966, Trung Ương T́nh Báo Hoa Kỳ rút vào bóng tối, nhường chỗ cho
MAC-SOG, một cơ quan t́nh báo quân sự, thay thế yểm trợ cho Nha Kỹ Thuật.
Khi cường độ chiến tranh VN
đi đến giai đoạn khốc liệt nhất th́ nhu cầu tin tức gia tăng
cao, do đó số toán Biệt Kích Dù hoạt động phải được tăng cường
nhiều hơn. Các phương tiện xâm nhập cũ được thay thế bằng
C123 hoặc C130 và nơi phát xuất được chuyển sang Nakor-Phanum, một sân bay nằm
sát biên giới Thái-Lào hoặc sân bay don nằm ở phía Đông -Bắc Thái Lan. Từ các nơi
đó các toán Biệt Kích Dù được chuyển qua trực thăng CH3 để bay băng
qua lănh thổ Lào, tiến về vùng mục tiêu nằm trên ranh giới Lào-Việt. Cũng có
lúc mục tiêu được lựa chọn nằm sâu trong nội địa Bắc Viêt.
Trực thăng là phương tiện xâm
nhập vừa rẻ tiên vừa tiện lợi nhưng lại là phương tiện kém
an toàn nhất, v́ tiếng động cơ quá lớn, địch dễ phát hiện. Phải
chăng đây là một trong những nguyên nhân thất bại của công tác Biệt kích tại
miền Bắc? Vấn đề này đă được phía VN quan tâm và nêu lên nhiều lần
trong các phiên họp Việt-Mỹ, nhưng phía đối nhiệm không quan tâm.
Số phận những con chim lạc loài
Đến cuối năm 1968, trong số
gần 40 toán được cho xâm nhập bằng đường hàng không và đường
bộ để hoạt động dài hạn, chỉ con có 5 toán là c̣n giữ được
liên lạc với Trung ương, đó là các toán Tourbillon (1962), AreÀs (1962), Remus (1963), Easy (1963)
và Eagle (1963). Theo đánh giá chung của các chuyên viên hữu trách Việt - Mỹ. th́ cả 5
toán này h́nh như đă bị địch kiểm soát, nhưng cá nhân tôi vẫn c̣n tin tưởng
một toán, đó là toán Ares. Sự tin tưởng này có thể đúng v́ lư do sau đây:
Vào những năm đầu ở trại
cải tạo, tôi thường bị cán bộ, không biết thuộc cơ quan nào và cấp
nào, đă thay nhau thẩm vấn tôi về các toán Biệt Kích. một trong những lần thẩm
vấn ấy, tôi bị 3 tên cùng một lúc thay nhau hạch hỏi suốt buổi sáng, khiến
tôi không c̣n sức chịu đựng, tôi đă bị gục ngă v́ tức giận và xây xẩm.
Họ cho người dẫn tôi về pḥng, nhưng 2 giờ sau lại kéo tôi lên tiếp tục
thẩm vấn. Họ dùng đủ tṛ ma giáo “hỉ, nộ, ái, ố”,...lúc th́ mời
tôi hút thuốc lá “có cán” (tức loại thuốc có đầu lọc, một loại
thuốc cao cấp vào thời ấy), lúc lại đập bàn quát mắng, khinh bĩ. Họ
chưa bao giờ đánh đập tôi lúc thẩm vấn, nhưng họ đă dùng những
lời rất cộc cằn và thô lổ để áp đảo tinh thần tôi.
Một điều làm tôi quan tâm hơn cả
là họ hỏi tôi rất nhiều về toán Ares, như trưởng toán tên ǵ, quê quán ở
đâu, tuổi tác độ bao nhiêu, dáng điệu bên ngoài như thế nào, có những đặc
điểm ǵ, những liên hệ gia đ́nh, địa chỉ của các người thân
lúc ở miền Nam, v.v... Tôi thầm nghĩ nếu Ares đă thật sự nằm trong tay
họ th́ mắc mớ ǵ họ phải hỏi tôi những chuyện thừa thải ấy.
Tôi có lư do để không trả lời họ, v́ Ares đă xuất phát năm 1962, trước
khi tôi được thuyên chuyển về Sở Bắc. Tuy nhiên, hôm nay tôi xin nói ra đây những
ǵ tôi có thể nói ra được. Một vài chi tiết khác tôi thấy chưa thể tiết
lộ lúc này v́ có thể phương hại đến sự an toàn của toán đó, nếu
quả thật toán đó đến nay vẫn c̣n dấu được tung tích.
Ares hay Hạ Long có tên thật là..., một
cán bộ trung cấp và là đảng viên CS bị khai trừ v́ bất măn. Anh đă theo đoàn
người di cư vào Nam năm...và được một giới chức miền Nam báo
cáo lên ông Ngô Đ́nh Nhu, Tổng Thống Diệm và ông Nhu đă lưu tâm và giúp đỡ cho
người này. Sau dó, Sở Bắc đă cử người đến tiếp xúc thuyết
phục và bố trí cho anh trở về Bắc hoạt động. Anh đă đồng ư
và đă được đưa xâm nhập vào Vịnh Hạ Long năm 1962, rồi từ
đó tiến dần về cảng Hải Pḥng và nhà máy điện Uông Bí. Đây là 2 mục
tiêu mà anh có nhiệm vụ theo dơi và báo cáo mọi sinh hoạt. Ares tỏ ra rất tích cực
trong mọi nhiệm vụ giao phó, và điều rất kỳ lạ là anh đă mộ mến
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm một cách khác thường. Hàng năm, trước ngày
Song Thất hoặc 26/10, anh đều có đánh điện chúc mừng TT Diệm và nguyện
trung thành phục vụ tổ quốc. Khi nghe tin TT Diệm bị giết qua đài phát thanh,
anh rất thắc mắc và sau khi được Trung ương xác nhận, anh đă tỏ
ra chán nản tột độ. Dù vậy, anh vẫn thi hành mọi công tác giao phó một cách
chu đáo. Những chuyến tàu cập bến Hải Pḥng, nhất là các tàu chở vũ khí
hay quân dụng, đă được anh theo dơi và báo cáo khá chi tiết. Ngoài nhiệm vụ trên,
anh c̣n báo cáo kết quả oanh tạc của một số mục tiêu khác nhau như cầu
Hàm Rồng và nhà máy điện Uông Bí ở quanh vùng Hải Pḥng.
Để giúp anh thi hành nhiệm vụ trong
thời gian anh bị bịnh sốt rét, Trung ương đă chấp thuận đề
nghị của anh, tuyển mộ thêm người em ruột và một hai người khác
trong họ hàng, để phụ anh thực hiện quan sát các mục tiêu ở xạ Trong
những năm 1966, 1967 và 1968, bệnh sốt rét của anh trở nên trầm trọng, nhưng
Trung ương không tiếp tế cho anh được v́ địa điểm nhận tiếp
tế của anh nằm trong Vịnh Hạ Long đă bị lộ. Thêm vào đó, vùng biển
Hải Pḥng bị Mỹ gài ḿn khiến mọi cố gắng tiếp tế bằng thuyền
cho anh đều không thể thực hiện được.
Khoảng giữa năm 1968, do lời yêu
cầu của phía VN, Hoa Kỳ đă t́m được kế hoạch tiếp tế cho Ares.
Trung ương báo ngay cho anh tọa độ một số băi thả tiếp tế và yêu
cầu toán đến tận nơi nghiên cứu và báo ngay địa điểm ưu tiên
được chọn. Sau khi nhận phúc đáp, Trung ương đă hướng dẫn
các chi tiết mà toán phải thi hành để có thể nhận tiếp tế đúng như
dự liệu. Đến ngày N, giờ G, một đoàn phản lực đă xuất hiện
bắn phá một số mục tiêu ở Hải Pḥng, cùng lúc đó một phản lực cơ
khác đă bắn một thùng “container” đựng hàng tiếp tế xuống thửa
ruộng đă ấn định và được Ares đánh dấu bằng 2 cụm khói
trắng như đă chỉ thị. Cách tiếp tế này đă được thực tập
2 lần tại trại Long Thành và cả 2 lần đều đem lại kết quả
mong muốn. Trong container đựng hàng tiếp tế, ngoài lương thực, thuốc men,
áo quần c̣n có 10 khâu vàng để toán trao đổi thực phẩm hoặc thuốc men
mỗi khi cần đến. Ngoài các vật dụng trên, c̣n có 4 lá thơ, trong đó có một
lá thơ thăm hỏi của Trưởng công tác, c̣n 3 lá thơ khác được dán b́ kín.
Toán được chỉ thị dán tem vào và tuần tự gởi đến một địa
chỉ trung gian tại Thái Lan. Mỗi thơ đều có dấu hiệu riêng mà toán không được
biết lư do.
Chỉ trong một thời gian ngắn, 2
thơ có nội dung thường đă đến tay người nhận, thơ c̣n nguyên si
không bị mở, nhưng thơ thứ 3 có “gài” một tài liệu bí mật giả
tạo lại không đến tay người nhận. 2 tháng sau, khi dược Trung ương
hỏi về lá thơ này th́ toán cho biết, trên đường di tới bưu điện,
bị c̣i báo động, đương sự phải chạy t́m hầm trú ẩn, không may
đánh rơi lá thơ xuống vũng bùn nên đương sự đă không gửi. Lư do
này đă khiến bạn đồng minh Hoa Kỳ nghi ngờ ḷng trung thành của Ares
Nhiệm vụ mới
Đến năm 1968, sau đợt tấn
công của địch vào dịp Tết Mậu Thân, Nha Kỹ Thuật phải lănh nhận
thêm rất nhiều công tác ngoại biên với những toán mới được thành lập
: - Các toán STRATA là những toán quân nhân được huấn luyện thuần thục để
thi hành những công tác đột kích hay phá hoại các căn cứ địch nằm trên
lănh thổ Bắc Việt. - Các toán PICK-HILL là những toán người Miên gốc Việt hoạt
động trong lănh thổ Cam-bốt, có nhiệm vụ quan sát và phá hoại các căn cứ
địa của VC nằm trên lănh thổ nước láng giềng Cam-bốt. - Các toán EARTH-ANGEL,
c̣n được gọi là Đề Thám, là những toán được thành lập với
thành phần tù binh bộ đội Bắc Việt hồi chánh. Các toán này hoạt động
rất đắc lực, được trang bị như bộ đội chánh quy miền
Bắc. Nhờ đó họ len lỏi vào vùng địch khá dễ dàng và đă nhiều phen
lập được nhiều thành tích đáng kể. Một số toán viên sau dó đă gia
nhập Quân đội VNCH. - Các toán SINGLETON hoạt động riêng biệt từng cá nhân.
Họ là những Việt kiều từng sống nhiều năm tại Cam-bốt, được
móc nối trở lại hoạt dộng nằm vùng tại Mimote, Krek, Sihanoukville, Kratié, Ba Thu,
v.v... Đây là những nơi địch đặt căn cứ quân sự và hoạt động
rất mạnh. Các nhân viên này có nhiệm vụ theo dơi, báo cáo hoạt động địch
và hướng dẫn phi cơ oanh tạc lúc cần thiết.
Ngoài các toán hoạt động như trên,
c̣n có chương tŕnh công tác lừa địch và ly gián địch, được gọi
là chương tŕnh Borden, mà toán viên là những tù binh bộ đội Bắc Việt cứng
đầu. Họ được học nhảy dù vài hôm trước khi được trang
bị như một toán viên rất trung thành của miền Nam : một bản đồ,
lệnh hành quân, thơ giới thiệu, v.v... Các thứ này được dấu kín trong áo
nhảy và chỉ được trao cho toán viên tù binh cứng đầu mặc vào trước
khi được thả dù xuống vùng địch chiếm đóng.
Các chương tŕnh mới này đă đem
lại những kết quả hết sức khích lệ, nên phía Hoa Kỳ đă yêu cầu
phía VN chấm dứt liên lạc với 5 toán c̣n lại ở miền Bắc, bằng cách ra
lệnh cho các toán ấy t́m cách xâm nhập qua Lào, trinh diện với bộ đội Vang
Pao hoặc rút về miền Nam... Tuy nhiên, nhiều tháng sau khi lệnh được ban hành,
không một toán nào xuất hiện.
Hướng về những người anh em kiêu
hùng
Các Biệt Kích Dù bị CS bắt đă phải
chịu đủ thứ cực h́nh. Tuy vậy, họ vẫn giữ vững tinh thần
quốc gia và đồng đội. Thái độ cương quyết của họ đă
phải làm các cán bộ CS khâm phục và gọi họ là những người “không cải
tạo được”. Măi đến một thời gian lâu sau khi VNCH bị chiếm
đóng, CS mới tuần tự tạm trả tự do cho các tù nhân Biệt Kích. Người
được trả sớm nhất đă phải ở tù suốt 15 năm và người
lâu nhất trên 20 năm. Khi họ trở về, chúng ta đă biết thêm được nhiều
chuyện đă xảy ra khi họ công tác tại Bắc Việt. Tuy nhiên, vẫn c̣n một
số toán bặt tin, trong đó có toán VOI do anh Trần Hiếu Ḥa làm trưởng toán cùng với
4 toán viên. Toán AreÀs mà tôi đă đề cập ở trên và một vài toán khác nữa, cũng
đang nằm trong danh sách những toán mất tích này. Phải chăng họ đă bị thủ
tiêu hay đă hy sinh trên đường thi hành nhiệm vụ. “Hy sinh trong bóng tối, tất
cả v́ Tổ quốc”, đó là phương châm hành động mà mọi Biệt Kích
đă chấp nhận khi gia nhập vào binh chủng này.
Tôi c̣n nhớ năm 1970, các sĩ quan trong
Bộ chỉ huy Nha Kỹ Thuật đă được xem một cuốn phim mà một đơn
vị VNCH vừa tịch thu được của bô đội Bắc Việt khi tấn
công vào một căn cứ địch ở Mimot, Cam-bốt. Cuốn phim ghi lại phiên ṭa
xét xử một toán Biệt Kích mang tên toán Jackson, hoạt dộng tại vùng Nghệ Tĩnh.
Bản cáo trạng rất dài, luận tội rất nặng “nào là tay sai đế quốc
Mỹ, tay sai Ngô Đ́nh Diệm, nào là xúi dục nhân dân lật đổ chính quyền và phá
hoại tài sản nhân dân, v.v...
Toán Jackson đă bị bắt toàn bộ với
tất cả vũ khí và chất nổ khi toán phá chiếc cầu thứ 2 tại Cửa Ḷ.
Hầu hết toán viên đă lănh án tử h́nh, chỉ 1-2 người lănh án chung thân. Điều
làm anh em chúng tôi xúc động và hănh diện, là được chứng kiến thái độ
hiên ngang và b́nh tĩnh của các toán viên khi bản án tử h́nh được tuyên đọc.
Theo lời một nhân chứng quê ở Thọ Ninh, bà con với một toán viên cho biết,
6 người lănh bản án tử h́nh đă bị bắn ngay sau đó, và lời nói cuối
cùng của họ là : Việt Nam Cộng Ḥa muôn năm! Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm
muôn năm!
Anh em chúng tôi là nững người đă
đi qua nhiều trại cải tạo ở miền Bắc và đă được nghe nói
rất nhiều về những việc làm đáng phục của anh em Biệt Kích. Trong số
đó có các vị linh mục, đại đức tuyên úy, các bạn bè của tôi đă sống
chung trại với các anh ấy. Ngoài ra, các tù h́nh sự miền Băc mà đa số chúng
tôi thường gọi họ bằng danh từ “bọn h́nh sự”, v́ phần đông
họ thuộc thành phần bất hăo, trộm cướp, đâm chém, giết người...khi
được hỏi về anh em Biệt Kích th́ họ tỏ vẻ rất khâm phục. Họ
nói với tôi :”Các anh Bê Ka là những người rất hào hùng, cán bộ trại cũng
phải nể, các anh ấy rất kỹ luật và đoàn kết với nhau, họ thương
nhau và giúp đỡ nhau. Khi một người bị biệt giam được thả hay
bị ốm, là các anh khác t́m cách giúp đỡ. Dù ai cũng đói, nhưng họ nhịn bớt
phần ăn để bồi dưỡng cho anh em bị bệnh hay bị ốm. Đă
có những anh Bê Ka cướp súng bắn cán bộ rồi chạy thoát, có nơi các anh toàn
bộ đứng lên làm reo tuyệt thực không đi lao động, nhưng cán bộ trại
cũng đành phải làm ngơ...”
Riêng cá nhân tôi, trong 13 năm cải tạo,
đă không may mắn gặp lại các anh em Biệt Kích, nhưng tôi không bao giờ quên những
con người hào hùng cùng chung lư tưởng đă cùng chung sống với nhau trong t́nh huynh
đệ chân thành. Tôi là người đă từng sống chung với họ ở trại
huấn luyện Long Thành và lúc họ lên đường đi công tác., tôi đă tiễn chân
hoặc nhiều khi đă cùng vói họ bay vào vùng mục tiêu xâm nhập, đưa tay vẩy
chào họ khi họ rời máy bay... Những kỷ niệm đó khó quên được.
Những kỷ niệm khó quên
Tôi nhớ lại năm xưa, có lần
trước ngày lên đường công tác, tôi lái xe đưa một nhân viên của tôi đến
thăm lần cuối người bạn gái, hay nói đúng hơn, một người yêu,
có nhà ở hẽm xứ Bùi Phát, trên đường Trương Minh Giảng, nay đổi
tên là Lê Văn Sỹ. Đến nơi, người thanh niên ấy vội vă bước xuống
xe như muốn tận dụng những giây phút ngắn ngủi và quư báu c̣n lại... Khoảng
10 phút sau, anh trở ra với người bạn gái đi theo tiễn chân, trên tay anh c̣n mang
một gói quà nhỏ mà tôi đoán chắc đó là quà kỷ niệm của người yêụ
Họ nh́n nhau, mắt đẫm lệ, và tôi chỉ biết im lặng cảm thông nỗi
buồn chan chứa đang xâm chiếm 2 tâm hồn... Xe chạy được một quăng
đường, người thanh niên ấy quay nh́n tôi, vừa nói vừa mở món quà :”Đây,
anh xem, quà cô ấy tặng em”. Tôi liếc nh́n, thấy một nắm tóc thề được
gói trong một chiếc áo lót. Cả hai chúng tôi đều im lặng trên đường về
trại.
Lần khác, một nhân viên của tôi
cũng sắp lên đường, anh đến gặp tôi và trao cho tôi một chồng thơ
khá dày đă đề b́ sẵn và nói :”Anh Dũng, anh biết em là con một, em đi nhưng
em đă không dám nói thật với mẹ em. V́ vậy, em nhờ anh mỗi tháng đến thăm
mẹ em và trao cho mẹ em một bức thơ này, nói là em đang đi học ở ngoại
quốc gửi về để mẹ em yên tâm”.
Tôi xúc động nh́n người thanh niên
ấy với tất cả ḷng yêu thương và mến phục. Tôi đă nhận thơ anh
giao và hàng tháng, tôi đă đến thăm mẹ em và trao cho bà quả phụ ấy bức
thư của con bà... Nhưng đau đớn thay, lá thơ cuối cùng của anh đă được
trao mà “khóa học” của anh vẫn chưa măn.
Hai nhân viên Biệt Kích mà tôi vừa
kể trên đây, cả 2 đều trở về từ cơi chết, sau gần 20 năm sống
trong lao tù CS, một anh hiện đang sống ở Cali, đó là anh Lâm, em ruột của anh
Nguyễn Ngọc Trâm, c̣n người kia, trước ngày tôi rời Saigon, anh ấy đang
vất vă hành nghề thợ mộc ngoài Vũng Tàu. Hy vọng một ngày không xa, anh Độ
cũng như bao nhiêu anh hùng Biệt Kích khác c̣n ở VN sẽ được đoàn tụ
với chúng ta tại quê hương thứ hai này.
Trung Tá Nguyễn Văn
Vinh
|